Bài viết này là bản lược dịch từ  nghiên cứu Should Trade Secrets Be Considered as Property Rights of the Owner, or as Relational Obligations? của tác giả Gea Donadoni. Tác giả đã đồng ý cho IP LOVERS chuyển ngữ bài viết. Bản gốc tiếng Anh với đầy đủ footnotes có thể truy cập tại đây.

Đặt vấn đề

Trong hơn một thế kỷ qua, các tòa án, học giả, luật sư đã tranh cãi về việc làm sao để tích hợp bí mật kinh doanh – một đối tượng ở hữu trí tuệ (SHTT) khá mới mẻ vào các học thuyết pháp lý rộng lớn hơn. Có ý kiến cho rằng bí mật kinh doanh không phù hợp với hệ thống SHTT cổ điển và đã đặt ra câu hỏi liệu bí mật kinh doanh có phù hợp hơn nếu đặt ở góc độ nghĩa vụ cá nhân thông qua hợp đồng hoặc trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.

Lập luận chính của bài báo này chính là cách tiếp cận từ quyền tài sản phải được ưu tiên vì nó nhấn mạnh bản chất của bí mật và quyền sở hữu đối với bí mật kinh doanh. Để chứng minh được kết luận này thì điều cần thiết ở đây là phải thừa nhận và đánh giá những lợi ích rõ ràng của việc hình thành bí mật kinh doanh theo cách tiếp cận dưới góc độ nghĩa vụ hợp đồng. Do đó, bài báo này gồm ba phần: phần đầu tiên sẽ bác bỏ ý kiến cho rằng nghĩa vụ hợp đồng là trọng tâm của bí mật kinh doanh; thay vào đó nghĩa vụ này bắt nguồn từ nhu cầu giành quyền kiểm soát và quyền sở hữu đối với thông tin bí mật. Phần hai phân tích hiệu quả chứng cứ rõ ràng của hợp đồng trong quá trình tố tụng. Phần này cũng sẽ phủ định lập luận rằng hoàn toàn phụ thuộc vào nghĩa vụ hợp đồng sẽ không thể bao hàm phạm vi của bí mật kinh doanh. Cuối cùng, phần thứ ba sẽ kết thúc thông qua việc đánh giá cách tiếp cận nào sẽ cân bằng nhất trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh với các mục tiêu chính sách của pháp luật.

1. Đặt tài sản vào trọng tâm của pháp luật về bí mật kinh doanh

Vào đầu thế kỷ XX, trong vụ án nổi tiếng của EI Du Pont de Nemours Powder Co. kiện Masland, Tòa án Tối cao đã bác bỏ quan điểm của thế kỷ XIX về chiếm hữu và quyền sở hữu vốn được sử dụng để tiếp cận bí mật kinh doanh. Thay vào đó, các thẩm phán chuyển hướng xem xét sự vi phạm nghĩa vụ giữa hai bên. Việc vi phạm nghĩa vụ bảo mật giữa nguyên đơn và bị đơn là mới là hành vi được pháp luật xem xét, chứ không phải là hành vi sao chép hay tiết lộ thông tin bí mật. Từ góc độ này, cho thấy pháp luật về bí mật kinh doanh dường như đại diện cho sự kết hợp pháp lý giữa luật hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng, như Robert Bone ví von rằng luật bí mật kinh doanh “ký sinh” trên các quy phạm pháp luật này. Thật vậy, có thể thấy các thẩm phán ở Masland không muốn mở rộng luật bí mật kinh doanh vượt ra ngoài giới hạn này vì nó không thể đứng độc lập như một thực thể pháp lý thường quy.

Bài viết này cho rằng việc chỉ dựa vào cơ chế nghĩa vụ của bí mật kinh doanh đã coi thường bản chất của bí mật và quyền sở hữu khi đánh giá các vấn đề pháp lý và xã hội. Theo giải thích của Mark Lemley, quan điểm thuần túy dựa trên nghĩa vụ là vô hiệu và không đưa ra bất kỳ lời giải thích nào về hành vi sai trái ngoài việc nó phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng. Theo cách này, pháp luật về luật bí mật kinh doanh tập trung vào việc trừng phạt hành vi sai trái hơn là theo đuổi chính sách và mục đích xã hội bao trùm của nó.

Có thể cho rằng, chỉ khi tồn tại thứ đáng được bảo vệ thì mới có ý định chung và cần phải ràng buộc. Do đó, nghĩa vụ hợp đồng xuất hiện là một hệ quả của chủ sở hữu để chia sẻ tài sản trí tuệ của mình một cách có chủ ý với bên thứ ba; nghĩa vụ không xâm phạm bí mật thông tin bắt nguồn từ nhu cầu của chủ sở hữu để đảm bảo quyền kiểm soát đối với thông tin dành cho mục đích thương mại. Pháp luật về bí mật kinh doanh nên xem xét điều chỉnh và định hình các giao dịch quan hệ xã hội nảy sinh từ việc sản xuất và truyền đạt thông tin bí mật, đặt ý tưởng tài sản vào cốt lõi của bí mật kinh doanh. Nếu lập luận này là chính xác thì kết quả của vụ Masland đã lỗi thời đáng kể. Hơn 60 năm sau, trong Vụ của Ruckelshaus kiện Monsanto, Tòa án tối cao đã giải quyết vấn đề, phục hồi quan điểm quyền tài sản bằng cách kết luận rằng bí mật kinh doanh cấu thành một dạng tài sản trong khuôn khổ của Bản tu chính án thứ 5.

2. Vai trò chứng minh của hợp đồng trong luật bí mật kinh doanh

Thông thường, cách tiếp cận dưới góc độ nghĩa vụ hợp đồng điều chỉnh quan hệ giữa các bên tham gia vào giao dịch kinh doanh, giữa người sử dụng lao động và người lao động. Với bối cảnh này, luật hợp đồng sẽ điều chỉnh việc xử lý bí mật kinh doanh thông qua các thỏa thuận lao động, không tiết lộ và không cạnh tranh, trở thành bằng chứng có giá trị. Nguyên đơn cần chứng minh rằng anh ta đã thực hiện “các biện pháp phòng ngừa hợp lý” để ngăn chặn việc tiết lộ thông tin cho công chúng rộng rãi. Ví dụ: Trong một vụ án năm 2019, Tòa án Quận phía Bắc của Illinois đã xác định rằng nếu nguyên đơn không yêu cầu bị đơn ký thỏa thuận không tiết lộ và chưa thiết lập tính bảo mật của thông tin thì điều kiện “các biện pháp hợp lý” nói trên sẽ không đạt được. Vì lý do này, nhiều học giả đã cho rằng các thỏa thuận bảo mật đóng vai trò quan trọng nhất khi Tòa án xác định tính chặt chẽ của các tranh chấp bí mật kinh doanh.

Mặc dù bài báo này đồng ý rằng các hợp đồng có giá trị chứng minh đáng kể, luật bí mật kinh doanh cho phép nó đạt được các mục tiêu mà một mình cơ chế nghĩa vụ hợp đồng không thể làm được. Ví dụ, pháp luật về hợp đồng không thể bao gồm trường hợp “biện pháp không phù hợp” và trường hợp người khác có được bí mật một cách tình cờ hoặc nhầm lẫn. Quan hệ hợp đồng chỉ có thể đóng một vai trò hạn chế là bằng chứng khi xác định sự tồn tại của mối quan hệ bí mật hợp pháp rõ ràng giữa chủ sở hữu thông tin và bên thứ ba mà anh ta chia sẻ thông tin đó. Mặt khác, việc mở rộng vượt ra ngoài quy định của hợp đồng cho tất cả các chủ thể “biết hoặc có lý do để biết” thông tin được thu thập không đúng cách sẽ cho phép Tòa án linh hoạt hơn khi xác định xâm phạm liên quan đến giá trị thương mại của việc giữ bí mật thông tin hơn là lạm dụng lòng tin. Một lý luận tương tự cũng áp dụng cho trách nhiệm ngoài hợp đồng. Sẽ thiếu sót nếu cho rằng từ “không đúng cách” (improper) chỉ bao gồm xâm phạm và trộm cắp, vì điều này sẽ làm cho sự tồn tại của luật bí mật kinh doanh về bản chất là thừa thải. Thay vào đó, thuật ngữ này dường như bao gồm một loạt các tình huống toàn diện hơn, chẳng hạn như tiết lộ ngẫu nhiên, mà chỉ có cách tiếp cận từ quyền tài sản mới có các công cụ và cơ sở lý luận cần thiết để xử lý.

Lập luận này được minh chứng rõ nhất qua trường hợp của EI Du Pont de Nemours & Co., khi mà bị đơn chiếm đoạt bí mật kinh doanh bằng cách chụp hình nhà máy của nguyên đơn trong quá trình xây dựng. Hành động gián điệp này đã gây ảnh hưởng đến uy tín, đạo đức và phát sinh sự cạnh tranh tranh không lành mạnh trong kinh doanh thương mại. Do không có mối quan hệ từ trước giữa hai bên và xét thấy rằng không có luật nào thực sự bị xâm phạm, vụ kiện này dường như không phù hợp lắm nếu xét trong khuôn khổ của luật hợp đồng hoặc trách nhiệm ngoài hợp đồng. Thay vào đó, hiểu được hành vi chiếm đoạt tài sản này thông qua cách tiếp cận từ quyền tài sản giúp xác định sự tồn tại của một hành vi vi phạm phát sinh từ quyền cơ bản là loại trừ và áp đặt nghĩa vụ đối với người khác không được ăn cắp bất hợp pháp bí mật trí tuệ của mình để đạt được lợi thế cạnh tranh.

3. Cân bằng giữa việc bảo vệ bí mật và các mục tiêu chính sách

Nghĩa vụ hợp đồng đóng một vai trò gây tranh cãi trong pháp luật về bí mật kinh doanh vì chúng có thể được sử dụng để trốn tránh và phá vỡ những hạn chế do lý thuyết mà luật này áp đặt. Bài báo này gợi ý rằng phương pháp tiếp cận quyền tài sản sẽ dễ dàng hơn và được trang bị tốt hơn để thực hiện các chức năng và phạm vi rộng hơn của bí mật kinh doanh và luật SHTT.

Thứ nhất, sự hiểu biết về quyền sở hữu đối với bí mật kinh doanh mang lại mối quan hệ cân bằng hơn giữa nguyên đơn và bị đơn, do đó bảo vệ đạo đức thương mại bằng cách tránh cái bẫy “bắt nhầm còn hơn bỏ sót”(catch-all) – bảo vệ bất kỳ và tất cả thông tin mà người sử dụng lao động tuyên bố là bí mật. Trong khi cách tiếp cận từ nghĩa vụ hợp đồng sẽ bắt đầu bằng cách hỏi liệu nhân viên cũ có truy cập thông tin thông qua người sử dụng lao động hay không; tiếp cận từ quyền tài sản sẽ đánh giá khách quan xem thông tin đó có bí mật và có được bảo vệ ngay từ đầu hay không, bất kể nhân viên đã có được nó như thế nào. Nếu thông tin không đủ tiêu chuẩn để được xem là bí mật thì quyền tài sản sẽ không quan tâm đến việc tại sao người sử dụng lao động lại cho rằng nó là bí mật; đồng thời, đánh giá thông tin dưới góc nhìn cởi mở hơn như là hành trang chung về kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm khi nhân viên chuyển từ công việc này sang công việc khác.

Thứ hai, dường như cũng có một chức năng giống như phần thưởng trong việc phân bổ quyền sở hữu đối với việc khám phá hoặc tạo ra thông tin mới, mà như lập luận ban đầu của John Locke – xuất hiện dưới dạng một quyền sơ khai để sử dụng và kiểm soát các thành quả lao động của một người đối với lợi thế thương mại của họ. Việc bảo hộ cho loại quyền sở hữu này thậm chí còn tạo thêm động lực cho người nắm giữ bí mật tiết lộ thông tin, từ đó khuyến khích sáng tạo bằng cách thúc đẩy các cuộc đàm phán kinh doanh có quy định chặt chẽ hơn. Bằng cách áp đặt một tiêu chuẩn rõ ràng, duy nhất, cách tiếp cận từ góc độ quyền tài sản thúc đẩy mục tiêu đổi mới mà không phải hạn chế cạnh tranh vốn không thể thiếu trong hoạt động kinh tế thị trường.

4. Kết luận

Bài viết này đã lập luận rằng luật bí mật kinh doanh phải được phát triển và hiểu vượt ra ngoài giới hạn của lý thuyết về nghĩa vụ hợp đồng vì cách tiếp cận này không đạt được các mục tiêu chính sách cơ bản của nó. Khi pháp luật về bí mật kinh doanh tiếp tục mở rộng về phạm vi và tầm quan trọng, sẽ rất thú vị nếu xem xét cách tiếp cận mà các thẩm phán Hoa Kỳ sẽ lựa chọn khi quyết định các vụ việc trong tương lai và đánh giá xem liệu có thể rút ra phép loại suy giữa lý lẽ của họ và các lập luận được trình bày trong bài báo này hay không.


Người dịch: Nguyễn Thị Ngọc Hiếu

  • Nguồn: Gea Donadoni, “Should Trade Secrets Be Considered as Property Rights of the Owner, or as Relational Obligations?(2021) 1 Warwick Undergraduate Law Journal, 65-80.
  • Hình ảnh: Dimitri Karastelev on Unsplash

© All rights reserved.

*** Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Bản quyền trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog.

Về tác giả

Previous post ST25 Case Study: What can business owners learn from ST25 to select a good trademark?
Next post Chuyển tòa án bang để tạo lợi thế trong phán quyết – chuyện chỉ có ở Mỹ?
0
Your Cart is empty!

It looks like you haven't added any items to your cart yet.

Browse Products