- ĐIỀU 4: Bổ sung hoặc định nghĩa rõ ràng hơn một số từ ngữ. Chẳng hạn, tác phẩm phái sinh “là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm […]”; hoặc sao chép “là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm […]”.
- ĐIỀU 7: Bổ sung giới hạn quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca: Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng các đối tượng nêu trên. Đây là sửa đổi mang tính thời sự sau sự cố bị tắt tiếng Quốc ca trên nền tảng Youtube.
- ĐIỀU 12A: Bổ sung Điều 12a quy định về tác giả, đồng tác giả. Thực tế thì phần lớn điều này đã có trong Nghị định 22/2018/NĐ-CP, nay được đưa vào luật với một số quy định rõ ràng hơn. Cụ thể, luật làm rõ hơn về đồng tác giả là có “chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh”. Với quy định này thì việc phân biệt giữa tác phẩm đồng tác giả và tác phẩm phái sinh sẽ trở nên minh thị hơn.
Đồng thời, luật cũng đã có những quy định cụ thể hơn về quyền nhân thân đối với các loại hình tác phẩm do tập thể tác giả tạo nên như điện ảnh, sân khấu.
- ĐIỀU 19: Bổ sung về quyền đặt tên cho tác phẩm (thuộc nhóm quyền nhân thân) có thể “chuyển quyền sử dụng […] cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản […]”. Quy định này cũng kéo theo sự thay đổi của Khoản 1, Điều 47. Một mặt, quy định này có thể xem là luật hóa một thông lệ trong ngành xuất bản, khi mà không phải lúc nào tác giả cũng được toàn quyền đặt tên mà phải thỏa hiệp với nhà xuất bản để lựa chọn một tên phù hợp. Khi đó, nếu thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng thì dễ dẫn đến khả năng bị vô hiệu căn cứ theo luật cũ. Tuy nhiên, mặt khác thì quy định này lại làm sai lệch bản chất về tính toàn vẹn của tác phẩm khi tách rời giữa tên với phần nội dung tác phẩm. Với quy định mới này, quyền đặt tên vẫn là quyền không được chuyển nhượng nhưng có thể chuyển quyền sử dụng.
- ĐIỀU 20: Trước hết, Điều 20 không đưa thêm quyền tài sản mới nào mà chỉ định nghĩa chi tiết hơn một số quyền như Biểu diễn tác phẩm, Sao chép tác phẩm, …Một số quy định thực chất chỉ là chuyển từ Nghị định 22/2018 vào luật.
Khoản 2 có một thay đổi đáng chú ý là “trường hợp làm tác phẩm phái sinh mà ảnh hưởng đến quyền nhân thân quy định tại khoản 4 điều 19 của luật này còn phải được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả”. Điều này khá đáng ngại vì sẽ làm hạn chế đáng kể khả năng tự do khai thác tác phẩm của chủ sở hữu. Bởi lẽ, làm tác phẩm phái sinh chắc chắn sẽ phải sữa chữa, cắt xén tác phẩm gốc; còn để xác định những thay đổi đó có gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả không thì vô cùng mơ hồ. Vậy khi nào bị xem là “ảnh hưởng đến quyền nhân thân quy định tại khoản 4 điều 19” để phải lập văn bản và khi nào thì không? Từ đó, gần như chủ sở hữu phải thỏa thuận bằng văn bản với tác giả trong mọi trường hợp để tránh rắc rối pháp lý.
Khoản 3 được quy định mới, bổ sung hai trường hợp chủ sở hữu quyền không thể ngăn cấm:
(1) Sao chép để thực hiện các quyền khác hoặc sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ. Sao chép tạm thời ở đây có lẽ là system caching ứng dụng trên Internet giúp tăng tốc độ truy cập. Quy định này có thể sẽ mở đường cho một cơ chế safe harbour – miễn trách nhiệm đối với ISP về hành vi xâm phạm quyền tác giả của người dùng.
(2) “Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.” Với quy định này, Việt Nam đã chính thức cho phép nhập khẩu song song tác phẩm được bảo hộ. Trước đây, luật quy định cấm “xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả“ – tức là hoàn toàn không áp dụng nguyên tắc hết quyền. Quy định cũ làm hạn chế khả năng tiếp cận của công chúng đến các tác phẩm đã lưu hành hợp pháp, nhất là từ thị trường nước ngoài.
- ĐIỀU 25: Quy định ở điều này có sự thay đổi khá toàn diện, trước hết là về tên gọi: đổi từ “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” thành “Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả.” Tên gọi mới ngắn gọn, và tiệm cận với các cách gọi quốc tế như fair use, fair dealing hơn.
Một số thay đổi nổi bật đó là:
(1) “Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép”
Như vậy luật mới ghi nhận quyền tự sao chép phục vụ mục đích học tập, thay vì giới hạn ở giảng dạy và nghiên cứu như trước đây. Tuy nhiên, cần phải chờ văn bản hướng dẫn về “thiết bị sao chép”. Có lẽ cụm từ này ám chỉ máy photocopy. Vậy nếu tự chụp ảnh bằng điện thoại di động thì có được áp dụng không?
(2) “Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại”
Đây là một quy định hợp lý về các trường hợp ngoại lệ. Khoản này bổ sung cho khoản 1, và có lẽ sẽ rất hữu ích cho hoạt động của thư viện nơi thường đặt các máy photocopy cho người đọc sử dụng. Để áp dụng được quy định này, các cơ sở giáo dục cần phải ban hành quy chế nội bộ về tỷ lệ tối đa được sao chép, chẳng hạn: không quá 10% hoặc 20 trang/lần sao chép.
(3) “Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa […] nhằm mục đích giảng dạy. […] có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ […]”
Như vậy, bên cạnh trích dẫn hợp lý, luật mới còn cho phép trường hợp sử dụng hợp lý, mở đường cho việc sử dụng trực tiếp các tác phẩm để minh họa nhằm mục đích giảng dạy một cách dễ dàng hơn.
(4) “Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;”
Quy định này đủ dài, chi tiết và tiến bộ để không cần phải bình luận gì thêm. Nó tạo điều kiện cho thư viện và liên thư viện được dễ dàng lưu trữ, hỗ trợ bạn đọc tiếp cận được nhiều nguồn tài liệu hơn bằng hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến.
- Tải toàn văn Luật số 07/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ tại đây
Về tác giả
Nguyễn Lương Sỹ
Giảng dạy sở hữu trí tuệ tại Trường Đại học Luật, Đại học Huế. Hiện là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Quản lý Singapore.