Đầu năm 2024, bộ phim hoạt hình gốc về Chuột Mickey và Minnie ‘Steamboat Willie’, tài sản trí tuệ của Công ty Walt Disney trong 95 năm, cuối cùng trở thành tài sản công cộng ở Hoa Kỳ (và có thể trên toàn thế giới). Có thể nói, Disney đã vô cùng may mắn khi sở hữu bản quyền trong một thời gian dài như vậy. Chính vì vậy, các nhà sản xuất khác đã không lãng phí thời gian một chút nào khi đoạn giới thiệu của một bộ phim về kẻ sát nhân đeo mặt nạ ăn mặc như chuột Mickey đã được phát hành vào ngày 1/1. Một trò chơi kinh dị mới lấy cảm hứng từ Mickey cũng được phát hành cùng ngày.

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả hiện tại là 50 hay 70 năm (tùy từng nước) kể từ khi tác giả qua đời đặt ra cho chúng ta câu hỏi, với những tiến bộ của xã hội, công nghệ và văn hóa, việc kìm hãm sự sáng tạo trong một thời gian dài sau khi tác phẩm được tạo ra có còn phù hợp không? Có lẽ đã đến lúc phải suy nghĩ lại xem liệu thời hạn bảo vệ như vậy có còn phù hợp trong thế kỷ 21 hay không, nơi mà việc sáng tạo với sự hỗ trợ của công cụ, có thể xảy ra trong chớp mắt.

Cựu thẩm phán Robin Jacob, một người đã có thâm niên trong xét xử nhiều vụ việc về SHTT đã phản đối việc tăng thời hạn bảo hộ bản ghi âm từ 50 năm lên 70 năm kể từ ngày xuất bản theo quy định của liên minh châu Âu. Ông mỉa mai “Có thực sự có một lớp nghệ sĩ biểu diễn nhạc rock về hưu sẽ thuộc diện nghèo nếu không có sự gia hạn này? Hay nghệ sĩ sẽ biểu diễn nhiều hơn hoặc tốt hơn khi biết rằng thời hạn bảo hộ là 70 chứ không phải 50 năm? […] chỉ có một vài bản ghi âm trên 50 tuổi vẫn còn quan trọng và những người tạo ra chúng đã giàu có từ trước”.[1]

Source: Ehsan Eslami

Ngày xửa ngày xưa

Khi Đạo luật bản quyền đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1710 – Đạo luật Anne, thời hạn bảo hộ chỉ “ngắn” vỏn vẹn 14 năm (tương đương với hai kỳ học việc – apprenticeship), với quyền gia hạn thêm 14 năm nếu như tác giả còn sống. Tất nhiên cần nhớ rằng đây là độc quyền dành riêng cho các nhà xuất bản. Nước Anh cũng không quên tưởng thưởng cho công chúng, bằng cách bàn giao tác phẩm về với không gian công cộng sau khi kết thúc thời hạn nói trên. Nước Mỹ kế thừa và phát huy … quá trớn di sản của người Anh bằng cách nới rộng thời hạn bảo hộ bản quyền ở tân thế giới tới tối đa 42 năm vào năm 1831, gồm 28 năm kể từ khi định hình, và quyền gia hạn thêm 14 năm; trước khi thành 56 năm vào năm 1909. Động cơ của sự mở rộng thời hạn liên tục này thật khó để quy cho mục đích thúc đẩy sáng tạo cá nhân, khi mà mà mọi quyền lợi chỉ được trao cho các nhà xuất bản.

Dường như chỉ có nước Pháp, cái nôi của quyền nhân thân, mới để tâm đến sự tồn tại của tác giả. Sau cuộc Cách mạng Pháp, nước này lần đầu tiên đẩy giới hạn bảo hộ quyền tác giả lên đến trọn đời và 5 năm sau khi tác giả qua đời thông qua một nghị định ban hành năm 1791. Học tập nước Pháp, Đạo luật bản quyền tác phẩm viết năm 1842 của nước Anh cũng mở rộng thời hạn bảo hộ lên đến trọn đời tác giả cộng 7 năm sau khi tác giả qua đời, hoặc 42 năm kể từ ngày công bố tác phẩm, tùy cách tính nào dài hơn. Sau cùng, thời hạn bảo hộ tối thiểu hiện nay, trọn đời tác giả cộng với 50 năm tiếp theo năm tác giả qua đời, được thiết lập bởi Công ước Berne 1886 (trên thực tế, phải đến bản sửa đổi Berlin 1908, quy định này mới được đưa vào).

Công chúng vẫn là người chịu thiệt

Chỉ chưa đầy hai thế kỷ, thời hạn bảo hộ bản quyền đã thay đổi đến chóng mặt, nhất là khi so với cả nghìn năm dò tìm từng bước một trước đó. Có lẽ khó để truy xuất lại được lý do thật sự. Nhưng dù là với lý do gì đi chăng nữa, rõ ràng tiêu chuẩn bảo hộ hiện nay đang đáp ứng quá tốt mục tiêu ban đầu của tác quyền là thúc đẩy động lực sáng tạo cá nhân. Thời hạn bảo hộ càng dài thì tác giả càng thu được nhiều lợi ích. Tuy nhiên, “hạnh phúc cũng chỉ là một tấm chăn hẹp, người này co thì người kia bị hở”.[2] Kẻ chịu lạnh ở đây chính là công chúng. Nếu như thuở ban đầu, chỉ cần 14 năm là công chúng được tự do tiếp cận tác phẩm, thì giờ đây ở một nơi nào đó như Mexico chẳng hạn, họ thậm chí có thể mất đến gấp gần 13 lần con số đó (179 năm – thời hạn bảo hộ được cho là dài nhất từng ghi nhận đối với một tác phẩm).[3]

Ở một góc độ khác, liệu rằng sự mở rộng về thời hạn bảo hộ có thực sự là nhằm thúc đẩy cá nhân tác giả? Trong xã hội kinh tế thị trường hiện nay, ngày càng ít tác giả tự mình khai thác tác phẩm đến trọn đời. Mà kể cả vậy thì việc kéo dài thêm tối thiểu 2/3 đời người (50 năm) sau khi tác giả chết, chưa kể đến 70 năm (ở Anh và châu ÂU), 75 năm (ở Mỹ), hay thậm chí 100 năm (ở Mexico) – có ý nghĩa gì cho việc thúc đẩy sáng tạo cá nhân? Thậm chí, Hoa Kỳ – nhà nước tư bản lớn nhất mọi thời đại – còn trao quyền tác giả cho tổ chức (work made for hire) với thời hạn 95 năm kể từ khi công bố hoặc 120 năm kể từ khi sáng tạo, tùy thời hạn nào kết thúc trước.

Hãy lấy thử một ví dụ là tác phẩm điện ảnh bom tấn đáng chú ý nhất năm nay – Oppenheimer của đạo diễn lừng danh Christopher Nolan: Nhà sản xuất Universal đầu tư 100 triệu USD, và dự kiến phải thu về tối thiểu 200 triệu USD để hòa vốn. Nhưng chỉ cần 2 tuần sau khi công chiếu, chỉ riêng thị trường nội địa đã mang lại doanh thu gần 229 triệu USD. Đến 25/10/2023, bộ phim đạt tổng doanh thu toàn cầu khoảng 950 triệu USD, gần gấp 10 lần chi phí sản xuất sau vỏn vẹn 3 tháng. Và, Universal sẽ còn độc quyền khai thác đứa con của mình thêm gần 100 năm nữa.

Thêm vào đó, khi tuổi thọ trung bình của con người càng trở nên dài hơn (72.27 tuổi), thời gian mà công chúng chờ đợi để một tác phẩm trở nên miễn phí càng lâu hơn. Đời sống của rất nhiều nghệ sĩ đương thời cũng được tốt hơn rất nhiều so với với những nghệ sĩ ngày xưa, những người mà tác phẩm của họ chỉ được ghi nhận khi họ qua đời và rất nhiều trong số đó chết trong nghèo đói. Vì vậy thời hạn bản quyền dài 50 hay 70 năm nhằm đảm bảo cuộc sống của những người thân nghệ sĩ. Câu hỏi được đặt ra là tại sao những người thừa kế lại được hưởng thành quả đến từ sự độc quyền mà họ không bỏ công tạo ra? Hơn thế nữa, luật bản quyền không chỉ bảo hộ những bản sao chính xác ít nhiều mà cũng như hầu như bất kỳ biến thể nào dựa trên bản gốc, tạo cho chủ sở hữu quyền một vòng tròn bảo hộ rộng lớn.

Có lẽ dù là tác giả hay nhà đầu tư đều không cần nhiều động lực đến thế. Vậy phải chăng, lý do này chỉ là tấm màn che chắp vá cho chủ thể hưởng lợi thực sự bởi quy định đó: các nhà tư bản? Đến bước này, mọi học thuyết nền tảng của quyền sở hữu trí tuệ bỗng chốc trở nên lu mờ, thất bại để biện minh cho sự hiện diện của một cán cân nghiêng ngả. Dĩ nhiên, vớt vát một chút thì đâu phải tác phẩm nào cũng là Oppenheimer, nên có lẽ nhà lập pháp chỉ đang trừ hao thêm “chút” thời gian cho những tác phẩm không thành công quá rực rỡ.

[1] The Right Honourable Sir Robin Jacob, “IP Law: Keep Calm and Carry On?” Current Legal Problems, Vol. 66 (2013), pp. 379, 382

[2] Nam Cao, Truyện Ngắn “Mua Nhà”.

[3] Luật Bản Quyền Mexico Bảo Hộ Tác Phẩm Đến Hết 100 Năm Sau Khi Tác Giả Qua Đời. Nhà Văn Andres Henestrosa Sinh Năm 1906, Là Tác Giả Của Quyển Sách Los Hombres Que Disperse La Danza Ra Đời Năm 1929. Ông Mất Năm 2008, Hưởng Thọ 101 Tuổi. Như Vậy, Tác Phẩm Nói Trên Sẽ Hết Thời Hạn Bảo Hộ Vào Tháng 1 Năm 2109, Tổng Cộng 179 Năm.

Bài viết được viết bởi hai tác giả Lê Vũ Vân Anh và Nguyễn Lương Sỹ, được đăng tải lần đầu trên báo Sài Gòn kinh tế với tiêu đề “Kéo dài hơn vòng đời bản quyền là không cần thiết” ngày 18/1/2024.

Về tác giả

Previous post Webinar 2/2024: Tra cứu sáng chế – Dễ hay khó?
Next post Nơi nguy hiểm nhất hành tinh
0
Your Cart is empty!

It looks like you haven't added any items to your cart yet.

Browse Products