“Overprotecting intellectual property is as harmful as under protecting it. Creativity is impossible without a rich public domain. Nothing today, likely nothing since we tamed fire, is genuinely new: Culture, like science and technology, grows by accretion, each new creator building on the works of those who came before. Overprotection stifles the very creative forces it’s supposed to nurture.” (per Kozinski J in White v Samsung Electronics Inc., 971 F.2d 1395)
Tạm dịch: “Bảo vệ quá mức tài sản trí tuệ cũng có hại như không bảo vệ nó. Sáng tạo không thể xảy ra nếu không có phạm vi công cộng phong phú. Mọi thứ cho đến thời điểm này, mọi thứ kể từ khi chúng ta học cách chế ngự lửa, không có gì là thực sự mới: Văn hóa, giống như khoa học và công nghệ, phát triển nhờ sự bồi đắp, mỗi người sáng tạo dựa trên tác phẩm của những người đi trước. Sự bảo vệ quá mức bóp nghẹt những lực lượng sáng tạo mà chúng lẽ ra phải được nuôi dưỡng.” (theo Kozinski J in White v Samsung Electronics Inc., 971 F.2d 1395)
Phát biểu đanh thép trên là của thẩm phán Kozinski trong vụ việc White v Samsung Electronics Inc., 971 F.2d 1395.
Vanna White là một người dẫn nổi tiếng của chương trình truyền hình ăn khách Wheel of Fortune, một trong những gameshow phổ biến nhất trong lịch sử nước Mỹ. Samsung đã sản xuất một quảng cáo truyền hình VCR, sử dụng một robot mặc váy có những điểm tương đồng với White đứng bên cạnh bảng trò chơi Wheel of Fortune. Samsung gọi đây là “quảng cáo Vanna White”. White đã kiện Samsung ra toà án Quận Nam California nhưng thất bại.
Kháng cáo của White lên toà Ninth Circuit đã thành công khi toà cho rằng hình ảnh của White có giá trị và Samsung đã chiếm đoạt hình ảnh này. Lập luận của Samsung rằng đây là một hành vi bắt chước (parody) không được chấp nhận vì thẩm phán cho rằng mục đích của quảng cáo không phải để nhái lại và chế nhạo White (như một đặc điểm của parody) mà là để bán các sản phẩm của mình.
Trong vụ việc này, thẩm phán Alex Kozinski của toà Ninth Circuit là người bất đồng chính kiến với đệ trình của Vanna White. Ông tuyên bố “Tất cả những người sáng tạo đều dựa vào tác phẩm của những người đi trước, đề cập đến nó, xây dựng nó, nhái lại nó; chúng tôi gọi đây là sự sáng tạo, không phải vi phạm bản quyền.”
Sự bất đồng của ông phản ánh mối lo ngại rằng nếu độc quyền SHTT trở nên rộng rãi một cách phi lý, thì sự bảo hộ nhằm khuyến khích sáng tạo có thể phản tác dụng, kìm hãm sự phát triển. Như ta đã biết, quyền SHTT tồn tại như một ngoại lệ đối với quy tắc cạnh tranh. Vì đây là độc quyền cản trở khả năng người khác sử dụng vật thể sáng tạo được bảo hộ, nó nên được cấp vừa đủ, để không xâm phạm đến phạm vi công cộng (public domain) nhiều hơn mức cần thiết. Thêm vào đó, chế định SHTT là một thoả ước xã hội giữa nhà sáng tạo và nhà nước, mà ở đó người sáng tạo được cấp các độc quyền quyền kinh tế trong một thời gian giới hạn để đổi lấy việc công chúng có thể tự do sử dụng ý tưởng đó khi thời hạn bảo hộ chấm dứt. Các giới hạn của luật SHTT được thế hiện ở nhiều mặt, chẳng hạn như sáng chế được phân định bởi các tuyên bố (claims); Yêu cầu trong các đơn đăng ký sáng chế phải công bố thông tin đầy đủ để đảm bảo việc khai thác tiếp theo của công chúng có hiệu quả. Nhãn hiệu phải có sự phân biệt và có khả năng xác định chính xác và khách quan. Luật bản quyền chỉ áp dụng đối với sự thể hiện của tác phẩm, chứ không phải là thông tin hoặc ý tưởng trong tác phẩm. Hầu như các loại hình SHTT đều có ngoại lệ, cho phép bên thứ ba sử dụng vật thể mà không vi phạm độc quyền.
Tuy nhiên, tính hợp pháp của thoả ước xã hội này càng bị thách thức khi sự chồng chéo giữa đối tượng bảo hộ ngày càng gia tăng. Chính điều này đã dẫn đến cảnh báo của Kozinski, vì ông gợi ý rằng phạm vi bảo vệ nên được hiểu theo nghĩa hẹp để bảo vệ càng nhiều quyền tự do cho công chúng càng tốt và luật chỉ nên cung cấp mức bảo vệ cần thiết để đủ khuyến khích sáng tạo. Khi luật SHTT được tạo ra trong thời gian ban đầu, những nhà làm luật đã đưa ra những cơ sở khác nhau cho việc bảo hộ từng loại hình SHTT dẫn đến sự khác nhau về thời hạn và phạm vi bảo hộ, để đảm bảo rằng người sáng tạo được cân bằng đầy đủ với lợi ích của công chúng. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng một sự sáng tạo nhận được nhiều hình thức bảo hộ và do đó được hưởng lợi từ các khía cạnh mạnh nhất của mỗi chế độ. Điều này được coi là sự chồng chéo không mong muốn. Chẳng hạn như âm thanh có thể bảo hộ dưới dạng luật bản quyền và đồng thời là nhãn hiệu (sound trademark). Hình dáng một vật vừa có thể được bảo hộ dưới dạng kiểu dáng công nghiệp (industrial design), bản quyền và cả nhãn hiệu (shape trademark).
Bảo vệ quá mức SHTT là có hại vì nó bỏ qua thực tế rằng bất kỳ thứ gì “mới” mà chúng ta tạo ra ngày nay đều được xây dựng dựa trên những gì đã tồn tại trong miền công cộng. Tất cả các tiểu thuyết mới đều sử dụng các quy ước viết lách chuẩn mực, các câu chuyện văn học, các bộ phim mới đều được xây dựng dựa trên các kỹ thuật phim truyền thống, các loại vaccine mới đều có nền tảng là kiến thức hóa sinh cơ bản. Nếu các ý tưởng và kiến thức trong lĩnh vực công cộng là nền tảng thiết yếu cho sự sáng tạo và đổi mới, thì việc tư nhân hóa khu vực này sẽ đặt ra những rào cản đối với những người mong muốn tạo ra các tác phẩm có lợi cho xã hội.
Việc trao cho chủ sở hữu bằng sáng chế quyền loại trừ những người khác có khả năng kìm hãm sự tiến bộ công nghệ theo hai cách: nghiên cứu trong tương lai sẽ bị chặn trong trường hợp chủ sở hữu bằng sáng chế từ chối cấp phép độc quyền (licensing), nhưng ngay cả khi chủ sở hữu sẵn sàng tham gia vào việc cấp phép, chi phí giao dịch liên quan đến việc đàm phán thỏa thuận sẽ vẫn làm cho nghiên cứu nói trên trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả tích lũy của việc tư nhân hóa các bộ phận khác nhau của các tổ chức khoa học là hình thành các lớp sáng chế (patent troll/patent thicket), mà ở đó việc phát triển hoặc tiến tới một giải pháp hoặc kỹ thuật hữu ích sẽ liên quan đến việc vi phạm nhiều bằng sáng chế do các bên khác nhau nắm giữ.
Nếu sáng chế vô cùng quan trọng trong các lĩnh vực có chi phí sáng tạo cao như dược phẩm; hoặc nếu luật bản quyền đóng vai trò then chốt đối với ngành công nghiệp điện ảnh, hệ thống SHTT không nhất thiết đúng trong các lĩnh vực sáng tạo khác như hài kịch, ẩm thực, và thời trang, nơi việc sáng tạo mạnh mẽ diễn ra trong điều kiện gần như không có bất kì loại hình bảo hộ nào.
Chẳng hạn các đầu bếp Pháp sử dụng một hệ thống dựa trên quy chuẩn để bảo vệ công thức nấu ăn của họ, một thứ nằm ngoài phạm vi bảo vệ quyền tài sản trí tuệ truyền thống. Vì giới ẩm thực cao cấp nhỏ và mọi người trong cộng đồng, bao gồm cả đầu bếp và người tiêu dùng, sẽ lên án những người sao chép công thức của người khác hoặc tiết lộ bí mật liên quan đến công thức, nên hầu hết các đầu bếp không được làm như vậy vì họ biết rằng họ không thể thành công mà không có sự tôn trọng và hỗ trợ của cộng đồng (Emmanuelle Fauchart, Eric von Hippel, (2008) Norms-Based Intellectual Property Systems: The Case of French Chefs. Organization Science 19(2):187-201.). Trong khi các đầu bếp Pháp vẫn sẽ có động lực để tạo ra nhiều công thức nấu ăn hơn bất chấp những sáng tạo đó có được bảo vệ bởi luật SHTT hay không, điều tương tự sẽ không áp dụng cho các lĩnh vực mà ở đó người sáng tạo ít hoặc không có nhu cầu cá nhân để tránh bị các thành viên khác trong nhóm lên án vì xã hội khó thực thi các tiêu chuẩn “không sao chép” hoặc “không vi phạm bản quyền”. Hãy xem xét ngành công nghiệp dược phẩm – nếu thuốc được bảo vệ bởi luật SHTT, khách hàng sẽ chỉ mua phiên bản rẻ hơn từ các nhà sản xuất thuốc sao chép (generic) thay vì lên án họ làm như vậy. Do đó, dược phẩm sẽ được sản xuất kém nếu không được bảo hộ quyền SHTT đầy đủ vì đơn giản là không có động cơ để đổi mới trong những trường hợp này.
Trong nhiều trường hợp, việc toà án công nhận bảo hộ SHTT còn vì nhiều lý do văn hoá xã hội khác. Chẳng hạn trong vụ việc Sawkins v Hyperion Records ở Anh, bản quyền của Tiến sĩ Sawkins đối với các bản nhạc cổ gần ba thế kỷ được ông tái tạo đã được công nhận vì đây là loại công việc bảo tồn lịch sử cần được khuyến khích. Trong INS v AP, phần lớn thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ sẵn sàng công nhận quyền tài sản trong bản tin nhằm duy trì động cơ kinh tế của AP để tài trợ cho các phóng viên nước ngoài tiền tuyến.
Nhìn chung, bài toán “biết đủ là đủ” không phải là một đề bài dễ dàng trong lĩnh vực SHTT khi xu hướng bảo hộ, kể từ hiệp định TRIPS, chỉ ngày càng gia tăng, chứ không hề giảm đi. Ngày nay gần như mọi ngóc ngách trên thế giới đều có mặt của tài sản trí tuệ. Thật khó để tìm ra một thứ không được bảo hộ. Miền công cộng cho công chúng sẽ còn lại được bao nhiêu?
Image:Piret Ilver on Unsplash
© All rights reserved.
*** Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Bản quyền trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog.
Về tác giả
Vân Anh
Vân Anh hiện đang là giảng viên (Assistant Professor) môn luật Sở hữu trí tuệ tại đại học Durham, vương quốc Anh. Blog cá nhân: https://www.vananhle.net/.