• Bài dự thi IP LOVERS – 2022 ESSAY COMPETITION
  • Tác giả: Đông Du

Phần I: Quy định về đồng tác giả
1.–Nhập đề: Như trong Tờ Trình dự án luật đã đề ra, đạo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2022 hứa hẹn sẽ đem lại những giải pháp khắc phục những vướng mắc, bất cập liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ hiện đang tồn tại. Vậy thì chúng ta hãy thử cùng tìm hiểu một số giải pháp khắc phục vướng mắc mà Đạo luật này đã đưa ra.
2.–Nguyên tắc xác định tác giả: Theo đó, chính sách đầu tiên trong tờ trình dự thảo đã đề cập đến việc làm rõ quy định về tác giả, tương ứng với đó là việc bổ sung Điều 12a. Về tổng quan thì đây là quy định được kế thừa từ các quy định cũ (từ Điều 745 Bộ luật Dân sự 1995 cho đến Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP), vốn đã nhất quán xác định rằng: Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm; còn người hỗ trợ, góp ý kiến không phải là tác giả, đồng tác giả.
Ngoài quy định trên, Điều 12a còn bổ sung thêm hai điểm mới như sẽ được làm rõ ngay sau đây. Lưu ý: để đơn giản hóa, những phân tích sau sẽ giả định rằng tác giả cũng đồng thời cũng là chủ sở hữu quyền tác giả.
3.–Điểm mới thứ nhất ở Điều 12a là quy định làm rõ tư cách đồng tác giả. Theo đó, chỉ những người “cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh” thì mới được xem đồng tác giả. Quy định này đưa ra hai yếu tố: (i) cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm và (ii) chủ ý về một sự kết hợp tổng thể hoàn chỉnh.
Yếu tố (i) hiển nhiên hợp lý vì đồng tác giả cũng là một tác giả, vậy trước hết họ cũng phải đủ điều kiện của một tác giả, tức phải trực tiếp thực hiện việc sáng tạo. Do đó, điểm mới quan trọng của quy định này nằm ở yếu tố thứ (ii). Ở đây cần phải lưu ý rằng, mặc dù câu từ không rõ ràng, nhưng ta vẫn có thể hiểu rằng chủ ý được đề cập phải là chủ ý của các tác giả chứ không thể là chủ ý đơn phương của một người.
4.–Lợi ích: Có thể thấy rằng, yếu tố (ii) đã giúp loại trừ một số trường hợp có khả năng gây nhầm lẫn với tác phẩm phái sinh – tác phẩm được sáng tạo mà không cần đến chủ ý hợp tác hoặc chỉ có chủ ý đơn phương của một người. Với quy định này, các tác phẩm được một người đơn phương sáng tác trên nền của một tác phẩm khác (ví như việc một bài hát được tạo ra bằng cách thêm lời cho các bản giao hưởng của Mozart) sẽ không còn được tranh cãi rằng đó có phải là tác phẩm đồng tác giả hay không.
5.–Rủi ro: Điều luật hiện hành dường như không đưa ra bất kỳ ràng buộc nào thời điểm sáng tạo của các tác giả cũng như thời điểm thể hiện chủ ý hợp tác này, rằng ý định phải xuất hiện tại thời điểm sáng tạo hay có thể xuất hiện vào bất cứ lúc nào? Ví dụ như tác giả một bài báo đã xuất bản năm 1990, có trở thành đồng tác giả một cuốn sách xuất bản năm 2022 vì nội dung cuốn sách có in lại bài báo và người này cùng những tác giả còn lại đã thống nhất rằng: “sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh”?
6.–Góc so sánh: Ở Hoa Kỳ, các đồng tác giả không bắt buộc phải sáng tạo ra tác phẩm trong cùng thời điểm, nhưng ý định hợp tác của họ bắt buộc phải có tại thời điểm thực hiện sáng tạo[1]. Dựa theo nguyên tắc này, tác giả bài báo của ví dụ kể trên sẽ không có được tư cách của một đồng tác giả.
7.–Điểm mới thứ hai ở Điều 12a là việc bổ sung nguyên tắc khai thác tác phẩm đồng tác giả. Theo đó, Điều 12a(3) đã minh thị khẳng định nguyên tắc thỏa thuận của các đồng tác giả trong việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản, kèm theo đó là hai ngoại lệ: khi (i) tác phẩm có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác; và khi (ii) luật khác có quy định khác.
8.–Lợi ích: Đạo luật hiện hành chỉ có một số chỉ dấu rằng việc công bố, phân phối tác phẩm (§28.4); chuyển nhượng (§45.3); cho phép sử dụng (§47.3); đăng ký (§50) quyền tác giả phải được sự đồng ý của các đồng tác giả/chủ sở hữu. Luật không nhắc đến sự thỏa thuận trong việc đặt tên, bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm; cũng như liệu một trong số các đồng tác giả có quyền tự khai thác tác phẩm hay không? Song, ngày nay vấn đề trên đã được giải quyết: tất cả phải dựa trên thỏa thuận.
9.–Rủi ro: Nguyên tắc trên thoạt trông có vẻ hợp lý nhưng vẫn có thể gây tranh cãi. Đầu tiên, quy định tại Điều 47.3 và 45.3 hiện hành về việc chuyển nhượng và cho phép sử dụng quyền tác giả không đề cập đến vấn đề “phương hại đến phần của đồng tác giả khác”. Vậy thì mối tương quan giữa hai quy định này và nguyên tắc tại Điều 12a là gì? Liệu ý đồ của nhà lập pháp là việc tự mình thực hiện quyền của mình phải không gây ảnh hưởng đến những người còn lại, nhưng khi chuyển giao các quyền này thì không cần quan tâm đến việc có gây ảnh hưởng hay không?
Một cách hợp lý, quy định tại Điều 12a phải là nguyên tắc chính và bao hàm cả Điều 47.3 và 45.3, song nội dung này vẫn chưa được khẳng định và vẫn có thể tạo ra xung đột.
10.–Rủi ro thứ hai: Liệu có hợp lý khi một đồng tác giả muốn sao chép tác phẩm cho riêng mình thì cũng phải có sự đồng ý của những tác giả? Và việc bảo vệ quyền có bao hàm trong khái niệm thực hiện quyền, cụ thể như trong việc bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm và việc xử lý việc xâm phạm các quyền tài sản có phải cần sự thỏa thuận hay không? Liệu một đồng tác giả có thể tự bảo vệ quyền của mình hay không? Quy định trên chưa đưa ra một đáp án rõ ràng.
Song, nếu dựa theo Bộ luật dân sự thì có thể câu trả lời là không cần sự thỏa thuận vì nguyên tắc tại Điều 11 Bộ luật này đã nêu rõ: Khi quyền dân sự của cá nhân (không phân biệt là quyền đó thuộc của chung hay riêng) bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ …
11.–Rủi ro thứ ba: Một sự bổ sung đáng chú ý của Điều 12a(3) nằm ở ngoại lệ thứ (i). Điều này có nghĩa là tác giả phần lời của một bài hát (như một ví dụ điển hình) sẽ chỉ được sử dụng quyền của mình một cách độc lập nếu người này chứng minh được rằng việc sử dụng của họ đáp ứng điều kiện “không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác”.

Song, hiểu như thế nào là phương hại? Và đối tượng bị phương hại ở đây là gì: là các quyền tài sản và nhân thân của các đồng tác giả? hay là danh dự, uy tín của người này? Nói theo cách khác, vì thiếu rõ ràng, ngoại lệ trên có khả năng không áp dụng được trên thực tế và do đó gây cản trở việc thực hiện quyền của các đồng tác giả.
12.–Góc so sánh: Ở Hoa Kỳ, cả hai trường hợp đồng chủ sở hữu quyền tác giả và đồng tác giả đều được áp dụng chung dưới chế định về “joint work”[2]. Theo đó, các đồng tác giả cũng như đồng chủ sở hữu quyền tác giả có quyền tự mình khai thác tác phẩm (và do đó cũng có quyền tự bảo vệ), với điều kiện phải chia sẻ một phần lợi nhuận cho các đồng chủ sở hữu/tác giả còn lại và việc khai thác này không được làm giảm đi giá trị của tác phẩm[3].


[1] Marshall. A Leaffer, Understanding Copyright law, 7th edition, Carolina Academic Press, 2019, no.506 [B].[2] Ibid, no.506 [D],[3] Ibid, no.506 [E].

Nguồn ảnh: tự chụp từ sách của tác giả Thượng Thuận, NXB Thanh Niên, 1997. Tác giả là Cựu phó Cục trưởng Cục Bản Quyền tác giả.

Về tác giả

Previous post Làm thế nào xây dựng Hồ sơ nhãn hiệu một cách bài bản?
Next post Bình luận về câu nói: “It might be possible to treat an AI system as an inventor, but it would never be appropriate to treat such a system as an author.”
0
Your Cart is empty!

It looks like you haven't added any items to your cart yet.

Browse Products