Những ai đã từng học qua môn luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chắc hẳn không lạ lẫm gì với câu hỏi thuộc hàng kinh điển: “Hãy phân biệt phát minh và sáng chế”. Tài liệu giảng dạy tại các cơ sở đào tạo lớn đều cho câu trả lời tương đồng nhau. Ở đây, dẫn Giáo trình Pháp luật Sở hữu trí tuệ của NEU (PGS.TS. Trần Văn Nam, 2019): “Phát minh là sự phát hiện ra một sự vật, hiện tượng, tính chất,… vốn đã có trong tự nhiên nhưng chưa được nhận biết trước đó […] và không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế vì việc khám phá ra đặc tính như vậy không có hiệu quả kỹ thuật.”(tr.113)
Đối chiếu định nghĩa trên với cách dùng thông dụng của tiếng Việt không khỏi khiến người học băn khoăn, bởi chúng ta vẫn thường sử dụng 2 từ với nội hàm giống nhau. Trong đó, “phát minh” là từ được sử dụng phổ biến hơn, đặc biệt là trên phương tiện truyền thông đại chúng.
Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê, 2003) cũng gợi mở phần nào dù vẫn khá mập mờ về cách dùng 2 từ này ở tiếng Việt:
– “Phát minh: Tìm ra cái có cống hiến lớn cho khoa học và loài người. Sự phát minh ra lửa thời tiền sử. Những phát minh, sáng chế khoa học.” (tr.768)
– “Sáng chế: Nghĩ và chế tạo ra cái trước đó chưa từng có. Sáng chế ra loại máy mới, Bằng sáng chế, Một sáng chế có giá trị.” (tr.846)
“Phát minh” và “Sáng chế” chỉ được phân định rõ ràng khi tra cứu tại Từ điển Bách khoa Việt Nam (Tập 3, 1995): “Sự phát hiện một sự vật, hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên mà con người chưa từng biết đến. […] Phát minh thường gắn liền với những nghiên cứu cơ bản trong khoa học lý thuyết và khoa học ứng dụng. Phát minh phản ánh các mối quan hệ hiện thức khách quan cơ bản và những tính chất của các hiện tượng trong thế giới hiện thực. Khác với phát minh, sáng chế gắn liền với việc ứng dụng các phát minh hay các quy luật, các nguyên tắc, các phương pháp đã có để giải quyết những vấn đề thực tiễn nhất định.” (tr.423)
Đến đây thì vấn đề đã trở nên minh thị. Vì không phải là chuyên gia ngôn ngữ, nên tạm kết luận: trong ngôn ngữ khoa học tiếng Việt, “phát minh” được hiểu thống nhất theo nghĩa phát hiện, khám phá (discovery). Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton là một phát minh, và Newton là nhà phát minh. Còn Edison, Tesla là những nhà sáng chế.
Vậy “sáng chế” có phải là “patent” trong tiếng Anh như nhiều người vẫn thường dịch?
“A patent is an exclusive right granted for an invention” (WIPO), hoặc “A patent may be granted only for an invention […]” (UK Patent Act 1977). Hiểu nôm na thì Patent là một thứ được cấp cho Invention nào đáp ứng đủ điều kiện. So sánh với ngôn ngữ của luật Việt Nam: “Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu các đáp ứng các điều kiện […]” (Điều 58, Luật SHTT 2005).
Như vậy, Patent tương ứng với Bằng độc quyền (sáng chế), còn “sáng chế” cần được dịch là “invention”.
-
Hình minh họa: Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học), NXB Đà Nẵng, 2003, trang 768.
© All rights reserved.
*** Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Bản quyền trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog.
Về tác giả
Nguyễn Lương Sỹ
Giảng dạy sở hữu trí tuệ tại Trường Đại học Luật, Đại học Huế. Hiện là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Quản lý Singapore.