Cấy ghép pháp luật là việc đưa quy định pháp luật của một quốc gia này sang áp dụng tại một quốc gia khác, hoặc cũng có thể là sử dụng một tập hợp các quy phạm và nguyên tắc vay mượn từ một quốc gia này tại một quốc gia khác. Cách thức cấy ghép có thể là tự nguyện hoặc áp đặt, phạm vi cấy ghép có thể là cả hệ thống pháp luật, các đạo luật, một số nguyên/quy tắc pháp lý hay học thuyết pháp lý. Tại Việt Nam, quá trình cấy ghép pháp luật đã diễn ra từ lâu. Vào thời thuộc địa, Hoàng Việt luật lệ của vua Gia Long là sự mô phỏng từ nguyên mẫu của Đại Thanh luật lệ kết hợp thêm với Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam thời kỳ trước, sau đó hệ thống pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng từ hệ thống Dân luật của Pháp. Sau khi giành được độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ thống Xô Viết cho đến Đổi Mới năm 1986, các chế định luật của phương Tây bắt đầu được cấy ghép, điển hình là Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ban hành năm 1990 dựa trên mô hình của Luật Thương nhân của Pháp năm 1966.

Mặc dù cấy ghép pháp luật là một trong những vấn đề trọng tâm của luật so sánh thế giới trong việc hiểu mối quan hệ giữa luật và xã hội, nghiên cứu về cấy ghép pháp luật ở châu Á chưa được nghiên cứu và lý thuyết hoá đúng mức. Việt Nam là một ví dụ điển hình cho nhận định này. Vì vậy, tác giả John Gillespie đã quyết định khảo cứu về cấy ghép pháp luật ở Việt Nam trong luận án tiến sỹ bảo vệ tại Đại học Quốc gia Úc, tiền thân của cuốn sách Transplanting Commercial Law Reform: Developing a ‘Rule of Law’ in Vietnam” (Routledge 2006). Thông qua chín chương sách, tác giả đề xuất một khuôn khổ lý thuyết mới để mô tả và phân tích việc lựa chọn, thích ứng và thực thi cấy ghép pháp luật tại Việt Nam.

Tác giả đưa ra ba định đề được sử dụng trong các chương tiếp theo (Chương 1). Định đề thứ nhất cho rằng khả năng sống sót của cấy ghép tăng khi ý thức hệ của pháp luật được cấy ghép tương thích với ý thức ưu thế mà định hình tư duy pháp lý và kinh tế của quốc gia tiếp nhận. Định đề thứ hai chỉ ra rằng khả năng tồn tại của cấy ghép tăng khi luật được cấy ghép thích hợp với cấu trúc quyền lực của quốc gia tiếp nhận. Định đề thứ ba nhận định rằng những nhóm gây áp lực phi-nhà nước ảnh hưởng lên việc lựa chọn và thực thi pháp luật nước ngoài. 

Vì những thói quen và nhận thức đương thời là sản phẩm của hành động được lặp lại và hành vi kéo dài trong quá khứ nên việc truy nguyên lịch sử cấy ghép pháp luật của Việt Nam là rất cần thiết (Chương 2). Trước thập niên 1980, tác giả cho rằng pháp luật Việt Nam là sự kết tinh của các giá trị đạo đức thời kỳ tiền-hiện đại và chủ nghĩa Marx-Lenin. Sau đó, khi Việt Nam muốn chuyển dịch sang kinh tế thị trường theo hướng mở rộng quyền thì cấu trúc thể chế và nhận thức luận sẵn có bắt đầu tỏ ra bất lực và chậm chạp. Vì vậy, việc cấy ghép pháp luật từ phương Tây là cần thiết trong bối cảnh này.

Tác giả sử dụng định đề đầu tiên để đánh giá liệu rằng ý thức hệ Marx-Lênin về nhà nước ở Việt Nam có cản trở việc cấy ghép luật thương mại hay không (Chương 3). Học thuyết nhà nước pháp quyền bắt đầu được xiển dương trong Hiến pháp 1992 và từ đó phát triển ý thức luận mới. Đây là đóng góp quan trọng của tác giả trong việc chứng minh sự đối nghịch của ý thức hệ không cản trợ việc cấy ghép pháp luật. Ngược lại, ở mức độ nào đó, thực tế này có thể tạo điều kiện cho việc cấy ghép pháp luật.

Tác giả áp dụng định đề thứ hai để khảo cứu mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước (Chương 4), ảnh hưởng của quá trình lập pháp đến cấy ghép pháp luật (Chương 5) và đánh giá việc cơ quan nhà nước thực thi pháp luật được cấy ghép (Chương 6). Mặc dù hệ hình xã hội chủ nghĩa có thể chưa thúc đẩy quyền tư hữu trong lĩnh vực thương mại nhưng “pháp quyền” ở chừng mực nào đó tạo điều kiện cho các mục tiêu của Đảng. Ngoài ra, nhận thức luận thủ cựu hay tân tiến ảnh hưởng đến mong muốn cấy ghép pháp luật. Khi phân tích diễn ngôn giữa các quan chức cấp cao, quan chức địa phương và giới doanh nhân có thể thấy được sự giằng co giữa lợi ích của Đảng, của nhà nước và lợi ích tư đối với việc thực thi pháp luật được cấy ghép.

Định đề thứ ba được triển khai để đánh giá cách mà các nhóm phi-nhà nước tận dụng việc lựa chọn và thực thi pháp luật nước ngoài (Chương 7). Tác giả đưa ra các ví dụ cho thấy giữa các nhóm có tư duy tương đồng thì pháp luật được cấy ghép dường như giữ được vẹn nguyên nội hàm. Pháp luật được cấy ghép phản ánh lợi ích của những nhóm này, đặc biệt trong bối cảnh  “tư bản quan hệ” của Việt Nam.

Tác giả đánh giá nhu cầu xã hội đối với luật thương mại được cấy ghép (Chương 8). Doanh nhân tận dụng pháp luật được cấy ghép để vượt qua những khuyết thiếu của việc tự điều chỉnh. Tác giả chứng minh rằng các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng lợi nhiều nhất từ luật thương mại được cấy ghép ít nhất là trong ngắn hạn.

Tác giả kết luận rằng không thể khái quát hoá cấy ghép pháp luật một cách rõ ràng khi có quá nhiều biến số thừa nhận những mệnh đề giả định về quan hệ nhân quả (Chương 9). Đồng thời, tác giả cũng phân tích tại sao những lý thuyết phổ biến đưa ra những tiêu chí sai lệch khi nhìn nhận trường hợp cấy ghép pháp luật của Việt Nam và cần phải có một mô hình giải thích hiệu quả hơn dựa trên các lý thuyết xã hội học pháp luật.

Cuốn sách của John Gillespie là một tác phẩm đáng đọc với những người muốn hiểu thêm về hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là dưới góc độ so sánh với các nước Đông Á và phương Tây. Tác giả đã thành công trong việc thiết lập một cách tiếp cận mới để định hướng các nghiên cứu sau về cấy ghép pháp luật nói chung và về Việt Nam nói riêng. Cách tiếp cận này siêu vượt được những hạn chế của lý thuyết phổ biến của luật so sánh.

Công trình của John Gillespie là sự kết tinh của trường phái luật học so sánh và xã hội học pháp luật. Thông qua lăng kính của tác giả, một đề tài tưởng chừng khô khan, kỹ thuật lại trở nên dễ gần. Ấn tượng nhất có lẽ là chiều kích lịch sử của công trình. Quá trình cấy ghép pháp luật ở Việt Nam dường như diễn ra song song với những biến động lịch sử. Đây có thể vừa là ưu vừa là nhược điểm của Việt Nam. Nếu nhìn nhận hệ thống pháp luật như một hệ sinh thái thì hệ thống của Việt Nam có khả năng thích nghi rất lớn và trưởng dưỡng được những chế định luật được cấy ghép. Tuy nhiên, ẩn sau sự độc đáo ấy là sự đứt gãy về ý thức hệ pháp luật khi tiếp cận với một vấn đề cụ thể mà có thể gây ra sự thiếu ổn định cho hệ thống pháp luật.

Về tác giả

Previous post Pháp luật quốc tế về sáng chế, giấy phép bắt buộc và quyền tiếp cận thuốc ở một số quốc gia trên thế giới – Kinh nghiệm cho Việt Nam
Next post “Phát triển không gian pháp lý thử nghiệm cho công nghệ tài chính và các lĩnh vực công nghệ mới tại Việt Nam” – TS. Trần Thị Quang Hồng (chủ biên)
0
Your Cart is empty!

It looks like you haven't added any items to your cart yet.

Browse Products