Giới thiệu

Hiện nay, rất nhiều công ty, đặc biệt là các công ty chuyên về khoa học sự sống (life science) phụ thuộc đáng kể vào khả năng sáng tạo của người lao động (NLĐ) để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời tạo ra sáng chế. Các sáng chế được cấp bằng độc quyền có thể mang lại hàng tỷ đô la cho doanh nghiệp. Vì vậy, những nhân viên làm việc trong bộ phận R&D thường được kỳ vọng sẽ tạo ra các sáng chế mang lại lợi ích khổng lồ. Thực tế cũng đưa ra các con số phản ánh xu hướng này. Theo một báo cáo của WIPO, khu vực kinh doanh chiếm hơn 80% tổng các đơn sáng chế nộp thông qua Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT). Con số này là 95% ở Nhật Bản và Thụy Điển. Ngày nay hơn 90% các sáng chế được cấp bằng độc quyền được tạo ra bởi các nhân viên làm việc cho các công ty, trường đại học, cơ quan chính phủ và các tổ chức khác. Hình ảnh lãng mạn về các nhà phát minh, các nhà sáng chế như Graham Bell, Thomas Edison, ngồi tỉ mẩn cặm cụi làm việc một mình, từ sáng đến đêm, trong một căn xưởng nhỏ để tạo ra các phát minh vĩ đại cho nhân loại, chỉ còn là dĩ vãng.

Pháp luật ở nhiều nước châu Âu đặt ra nguyên tắc bồi thường (remuneration) cho NLĐ nếu họ tạo ra sáng chế trong quá trình làm việc. Nhìn chung, luật pháp điều chỉnh sáng chế do NLĐ tạo ra có sự khác biệt khá đáng kể giữa các nước châu Âu. Một vài nước quy định việc bồi thường trong luật sáng chế như Anh, Hà Lan, pháp, Ý, Áo, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hungary. Các quốc gia như Đức, Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Ba Lan có luật riêng về lĩnh vực này. Trong khi đó, Ireland và Thụy Điển thì không có yêu cầu phải bồi thường cụ thể.

Đức được biết đến là quốc gia có quy định nghiêm ngặt về bồi thường sáng chế cho nhân viên. Theo Đạo luật về sáng chế của người lao động Đức (the German Act on Employees’ Inventions – Gesetz über Arbeitnehmererfindungen vom 25 Juli 1957 (BGBl I S 756), NSDLĐ có trụ sở tại Đức được yêu cầu trả cho người lao động “khoản bồi thường hợp lý” nếu họ tuyên bố “sáng chế dịch vụ” (service inventions) có thể được cấp bằng độc quyền.[1] “Sáng chế dịch vụ” là những sáng chế tạo ra trong quá trình lao động (i) mà là kết quả của nhiệm vụ của NLĐ, hoặc (ii) về cơ bản dựa trên kinh nghiệm hoặc hoạt động của công ty.[2] Luật này không chỉ áp dụng cho các sáng chế được cấp bằng độc quyền mà còn áp dụng cho các giải pháp hữu ích và các đề xuất cải tiến kỹ thuật khác không được cấp bằng sáng chế.

Các vụ việc liên quan đến đền bù cho nhân viên có thể kể đến như là Tòa án Sáng chế Vương quốc Anh đã trao tiền thưởng lần đầu tiên vào năm 2009, trong vụ việc Kelly v GE Healthcare [2009] EWHC 181 và 10 năm sau với vụ việc Shanks v Unilever plc [2019] UKSC 455. Để được bồi thường, Giáo sư Shanks phải trải quan 13 năm kiện tụng. Một trường hợp khác là một cựu nhân viên của Đường sắt Quốc gia Pháp (Société Nation- ale des Chemins de fer français (SNCF)) đã nhận được hơn 750.000 đô la Mỹ (khoảng 503.000 EUR) từ một tòa án sơ thẩm ở Paris vì đã sáng chế ra một hệ thống cho phép SNCF tiết kiệm chi phí 22 triệu đô la Mỹ (khoảng 14,8 triệu EUR) hàng năm (X c. Société Nationale des Chemins de Fer Français et Vape Rail International SAS (VRI), Tribunal de grande instance of Paris, phòng thứ 3, phần 1, ngày 19/5/2009).

Tuy nhiên dưới góc độ pháp lý, vẫn có nhiều điều chưa rõ ràng về quyền được bồi thường của NLĐ. Chẳng hạn làm sao để xác định ai là người sở hữu đối với các sáng chế do NLĐ tạo ra? Ngay cả khi quyền được bồi thường được xác lập, dựa vào những yếu tố nào để xác định số tiền bồi thường? Bài viết này sẽ cố gắng giải đáp những câu hỏi trên thông qua pháp luật và vụ việc của vương quốc Anh.

Quy định của vương quốc Anh

Xác định quyền sở hữu sáng chế tạo ra trong quá trình làm việc.

Theo quy định của Đạo luật Sáng chế 1977 (Patents Act – PA) của Vương quốc Anh, mặc dù bất kỳ người nào cũng có thể nộp đơn xin cấp bằng sáng chế, nhưng chỉ một số đối tượng nhất định mới được cấp sáng chế theo Mục 7.2. Đó là:

  1. Tác giả sáng chế hoặc đồng tác giả sáng chế
  2. Một người mà theo luật pháp nước ngoài hoặc các công ước quốc tế, được quy định cấp bằng sáng chế.
  3. NSDLĐ của nhà sáng chế khi sáng chế được tạo ra trong quá trình làm việc.

Sáng chế tạo ra bởi NLĐ được quy định từ Mục 39 đến mục 43 của PA 1977. Mục 39 quy định hai trường hợp mà một sáng chế sẽ thuộc về NSDLĐ.

  1. Sáng chế được tạo ra trong quá trình NLĐ thực hiện các nhiệm vụ thông thường hoặc các nhiệm vụ cụ thể mà một sáng chế có thể được mong đợi một cách hợp lý từ việc NLĐ thực hiện các nhiệm vụ của mình. Thuật ngữ “nhiệm vụ thông thường” (normal duties) nên được hiểu theo nghĩa rộng vì theo thời gian và trong quá trình lao động, “nhiệm vụ thông thường” của NLĐ sẽ có sự thay đổi chứ không chỉ giới hạn trong công việc hàng ngày. Vì vậy, một sáng chế vẫn có thể thuộc về NSDLĐ, ngay cả khi nó khác biệt so với những gì NLĐ dự kiến ​​sẽ làm việc.
  2. Sáng chế được tạo ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của NLĐ và do bản chất của nhiệm vụ và trách nhiệm liên quan, NLĐ có nghĩa vụ đặc biệt để nâng cao lợi ích của NSDLĐ. Trong những trường hợp như vậy, sáng chế do NLĐ tạo ra sẽ thuộc về NSDLĐ cho dù nhiệm vụ bình thường của họ không bao gồm việc tạo ra sáng chế hoặc liên quan đến các hoạt động R&D.

Nếu không rơi vào một trong hai trường hợp này, sáng chế sẽ thuộc về NLĐ. Cần chú ý rằng Mục 39 đề cập đến các sáng chế nói chung, không phải sáng chế đã được cấp bằng độc quyền. (Việc phân biệt giữa sáng chế và bằng độc quyền có thể tìm hiểu tại đây)

Mục 42 của PA 77 quy định rằng, nếu bất kỳ điều khoản nào trong hợp đồng giữa NLĐ và NSDLĐ hoặc NLĐ và bên thứ ba (theo yêu cầu của NSDLĐ) hạn chế quyền của NLĐ đối với các sáng chế do người này tạo ra, các điều khoản như vậy sẽ bị xem là vô hiệu (unenforceable). Hay nói cách khác, Đạo luật sáng chế của Anh không cho phép NSDLĐ dùng luật hợp đồng để “qua mặt” luật sáng chế, làm yếu đi quyền lợi của NLĐ, vốn đã ở vị trí yếu thế trong mối quan hệ lao động. Vì vậy, hợp đồng lao động không thể bao gồm một điều khoản yêu cầu NLĐ phải chuyển giao cho NSDLĐ tất cả các sáng chế mà người này tạo ra trong quá trình làm việc, ngoại trừ những sáng chế đáp ứng yêu cầu của Mục 39. Tuy nhiên, có hai hạn chế của Mục 42. Trước hết, quy định không được áp dụng trong trường hợp tài sản trí tuệ là bí mật kinh doanh và thứ hai, nó không thể được áp dụng sau khi nhân viên đã nghỉ việc.

Kết luận

Mặc dù pháp luật ở Anh có quy định rõ ràng về việc bồi thường cho NLĐ khi họ tạo ra sáng chế bất kể được cấp độc quyền hay không, tuy nhiên trên thực tế việc NLĐ đòi hỏi bồi thường thành công vô cùng khó khăn. Việc chỉ có hai vụ kiện như đã nói ban đầu chứng minh rằng toà án Anh đưa ra những yêu cầu khá nghiêm ngặt đối với sáng chế tạo ra trong quá trình lao động.

[1] Act on Employees’ Inventions, ss 2, 9(1)

[2] Ss4(2)

Tác giả: Vân Anh

© All rights reserved.

*** Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Bản quyền trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog.

Về tác giả

Previous post Doanh nghiệp cần bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài
Next post Sản xuất và phân phối vaccine Covid-19: Rào cản từ sở hữu trí tuệ?
0
Your Cart is empty!

It looks like you haven't added any items to your cart yet.

Browse Products